Tóm tắt
Tầm quan trọng của dinh dưỡng phốt pho và tác động bất lợi của tình trạng thiếu P phổ biến ở chăn thả gia súc ở các vùng đất chăn thả phía bắc Australia đã được biết rõ. Sự thiếu hụt P làm giảm sự tăng trưởng và tăng tuổi ngừng giết mổ. Năng suất cũng bị ảnh hưởng bất lợi ở cả bò cái tơ và bò giống trưởng thành với khả năng w88.is sản và trọng lượng cai sữa giảm và tỷ lệ tử vong tăng. Mặc dù nhìn chung có những lợi ích kinh tế lớn khi giải quyết tình trạng thiếu P nhưng chỉ có một tỷ lệ thấp chăn thả gia súc trên các đồng cỏ thiếu P trên khắp miền bắc Australia được quản lý và bổ sung hiệu quả để tránh tổn thất năng suất do thiếu P.
Một chương trình nghiên cứu đã điều tra các khía cạnh của dinh dưỡng P ở bò giống trong những trường hợp kiến thức được nâng cao về sinh lý và dinh dưỡng P sẽ dẫn đến các biện pháp quản lý thực tế nhằm tăng hiệu quả chi phí trong các hệ thống sản xuất ở miền bắc nước Úc. Mục tiêu của dự án là (i) xác định các thành phần của xương già đặc biệt hấp dẫn đối với gia súc thiếu P để chúng có thể được sử dụng làm chất hấp dẫn trong chất bổ sung P, (ii) xác định mức độ và sự tương tác giữa chế độ ăn x của động vật ảnh hưởng đến sự lắng đọng và huy động lượng P dự trữ trong cơ thể ở bò giống trong các tình huống điển hình ở miền bắc Australia và (iii) hiểu các cơ chế sinh lý kiểm soát sự huy động và lắng đọng lượng P dự trữ trong cơ thể ở bò giống. Ngoài ra, sử dụng kiến thức này để quản lý tốt hơn tình trạng thiếu P ở người chăn nuôi thông qua w88.is ước tính cải thiện nguồn cung cấp P hiện tại của động vật từ chế độ ăn và dự trữ cơ thể cũng như các phản ứng của động vật cũng như bằng các công cụ chẩn đoán tốt hơn về tình trạng P.
Với mục tiêu (i) sự hấp dẫn của gia súc thiếu P khi ăn xương cũ đã được kiểm tra để xác định các thành phần khứu giác gây ra sự hấp dẫn mà có thể được sử dụng để tăng lượng chất bổ sung P trong mùa mưa. Người ta đã chứng minh rằng sự hấp dẫn là một phản ứng có thể học được chứ không phải bẩm sinh và do đó không có khả năng tồn tại bất kỳ chất hấp dẫn phổ biến nào. Tuy nhiên, kiến thức mới có thể được sử dụng để cải thiện w88.is huấn luyện gia súc nhằm thu hút chúng bổ sung P.
Đối với các mục tiêu (ii) và (iii) năm thí nghiệm chuyên sâu với các giống bò trưởng thành Droughtmaster hoặc bò w88.is con đầu lòng (FCC) đã nghiên cứu sự huy động và lắng đọng P. Các con vật được nhốt trong các chuồng riêng lẻ trong 3-8 tháng và đo lường chính xác lượng ăn vào, bài tiết, cân bằng P, sản lượng sữa và những thay đổi LW ở bò cũng như sự phát triển của bê trong giai đoạn cuối mang thai và/hoặc giai đoạn đầu cho con bú. Gia súc được cho ăn chế độ ăn bán tinh khiết hoặc chế độ ăn có mật đường để đạt được lượng P và năng lượng chuyển hóa thích hợp (ME) đồng thời đo lường tác động lên lượng thức ăn ăn vào tự nguyện.
Bò giống trưởng thành sinh bê ở tình trạng P cao (do lượng P ăn vào cao trong thời kỳ mang thai) và được cho ăn khẩu phần thiếu P nghiêm trọng trong giai đoạn đầu cho con bú làm giảm VI, huy động P trong cơ thể nhiều (5-10 g P/ngày) và duy trì sản lượng sữa cũng như sự tăng trưởng của bê. Tăng trưởng của bê không bị ảnh hưởng trong một thí nghiệm và chỉ giảm nhẹ (từ 0,92 xuống 0,80 kg/ngày) trong thí nghiệm thứ hai. P huy động được cung cấp tới khoảng một nửa nhu cầu P của những con bò đang cho sữa này. Tuy nhiên, w88.is huy động P của cơ thể này có liên quan đến sự mất mát lớn ở bò LW (ví dụ 0,5 kg/ngày) cũng như P trong xương. Thí nghiệm thứ ba với FCC cho thấy những con vật này có khả năng huy động lượng P dự trữ của cơ thể để duy trì thời kỳ tiết sữa sớm kém hơn. Sản lượng sữa ở bò FCC và bò trưởng thành là tương đương nhau khi ăn đủ khẩu phần P. Tuy nhiên, ở FCC cho ăn chế độ ăn thiếu P nghiêm trọng trong cả thời kỳ cuối mang thai và thời kỳ đầu cho con bú, sản lượng sữa đã giảm tới 44% và mức tăng trưởng của bê lên tới 0,57 kg/ngày. Những tác dụng phụ này trong thời kỳ cho con bú đã giảm bớt nhờ chế độ ăn đủ P trong thời kỳ mang thai do huy động P.
Các tác động bất lợi lớn hơn ở FCC có thể là do họ cần P để tiếp tục phát triển xương và có ít P hơn để tiết sữa.
Một thí nghiệm khác xem xét ảnh hưởng của chế độ ăn thiếu P ở bò cái tơ nhanh chóng mất LW không có thai trong giai đoạn cuối của thai kỳ vì tình trạng này xảy ra thường xuyên trong môi trường dinh dưỡng khắc nghiệt và nơi thường xuyên thiếu P. Bất kể mức độ tổn thất LW khi cho ăn khẩu phần P cao như thế nào đều khiến bò tơ dự trữ nhiều P trong cơ thể hơn với P trong xương cao hơn khi sinh bê. Khi bò cái tơ đang duy trì (hoặc trong một thí nghiệm khác đạt được) LW không thụ thai trong chế độ ăn cuối thai kỳ, thiếu P làm giảm lượng tiêu thụ tự nguyện (VI) DM và ME. Vì vậy, w88.is bổ sung P trong mùa khô ở những con vật nuôi mang thai muộn cũng như những con vật nuôi đang cho con bú chăn thả đồng cỏ có hàm lượng P thấp được khuyến khích. Cơ thể P được huy động để hỗ trợ quá trình tiết sữa phải được bổ sung sau trong chu kỳ hàng năm để chuẩn bị cho bò đẻ hàng năm cho kỳ tiết sữa tiếp theo. Một thí nghiệm cho thấy rằng những con giống trưởng thành bị cạn kiệt P có thể bổ sung cả P xương và P mô mềm sau cai sữa khi cho ăn khẩu phần tương đương với khẩu phần ăn cỏ cuối mùa mưa hoặc đầu mùa khô, và sự bổ sung này lớn hơn nhiều khi cho ăn khẩu phần có nhiều P và ME. Vì vậy, người chăn nuôi có thể đáp ứng với w88.is bổ sung P và dự trữ P trong xương trong mùa khô.
Chương trình thử nghiệm đã nâng cao hiểu biết về các cơ chế w88.is lý quan trọng ở bò giống thịt trong tình trạng thiếu P và bổ sung P. Chế độ ăn thiếu P nghiêm trọng dẫn đến nồng độ P (PIP) trong máu giảm ngay lập tức và lớn (ví dụ:< 0.7 mmol/L), reduced VI, rapid loss of LW and often mobilisation of bone minerals. However the bone P mobilisation was insufficient to normalise PIP in breeders but did maintain PIP in weaners. Substantial mobilisation of bone unexpectedly did not involve the key bone mobilising hormone, parathyroid hormone PTH). With low P diets there is also an increase in the active form of Vit D3 (1,25-diOH Vitamin D3) which would promote intestinal absorption of Ca and P. Overall diet P deficiency in cows was characterised by low PIP, high blood Ca, high blood Ca/P ratio, markedly increased concentration of the bone mobilisation marker carboxy-terminal telopeptides of type I collagen (CTX-1) despite low PTH, and increased active Vit D3 and bone alkaline phosphatase (BAP).
Dự án hiện tại nâng cao hiểu biết về sinh lý học của P ở bò giống. Nó đã cải thiện cả w88.is dự đoán phản ứng bổ sung P ở vật nuôi thông qua chu kỳ hàng năm và chẩn đoán tình trạng P từ máu. Ngoài ra, dự án gần đây B.NBP.0719 đã cải thiện độ tin cậy của w88.is ước tính nồng độ P trong khẩu phần từ các phép đo phân. Lượng P dự trữ trong cơ thể ở gà giống có thể được huy động để giảm bớt tình trạng thiếu P trong khẩu phần ăn trong mùa mưa và được bổ sung từ từ trong mùa khô khi khẩu phần P đầy đủ. Người chăn nuôi, đặc biệt nếu đã trưởng thành, có thể chịu đựng được những khoảng thời gian thiếu P trong khi cho con bú nhưng thể trạng bị suy giảm nghiêm trọng. Khuyến cáo cơ bản rằng w88.is cho ăn bổ sung P trong mùa mưa là hiệu quả nhất là không thay đổi và phải là cách sử dụng bổ sung P hiệu quả và hiệu quả nhất. Khi không thể bổ sung P trong suốt mùa mưa thì nên bổ sung P trong thời gian còn lại của mùa mưa. Nên cho ăn bổ sung P trong mùa khô để duy trì và/hoặc bổ sung xương P ở một số lứa tuổi chăn nuôi (cho con bú, mang thai muộn, xương P bị cạn kiệt). w88.is ước tính mức độ đầy đủ P của chế độ ăn uống phải dựa trên máu, P và F.NIRS trong phân. Bởi vì hiện nay rõ ràng là mối quan hệ giữa nồng độ P trong khẩu phần và trong phân là không nhất quán nên tỷ lệ FP:ME không nên tiếp tục được khuyến nghị như một phương pháp chẩn đoán. Sự sẵn có thương mại gần đây của máy phân tích di động tại phòng khám thú y (đối với P, Ca, BAP trong máu, các chất chuyển hóa khác), máy quang phổ NIRS (đối với phân, nước tiểu và máu) và các thiết bị X-quang và siêu âm mang lại tiềm năng cho các hệ thống chẩn đoán tại trang trại để cải thiện w88.is quản lý tình trạng thiếu P ở chăn thả gia súc.