Chuyển hóa của w88.is hô hấp ở bò
| Ngày bắt đầu dự án: | 01 tháng 11 năm 2016 |
| Ngày kết thúc dự án: | 31 tháng 8 năm 2018 |
| Ngày xuất bản: | 20 tháng 5 năm 2018 |
| Trạng thái dự án: | Đã hoàn thành |
| Loài vật nuôi: | Bò ăn ngũ cốc |
| Các khu vực liên quan: | Quốc gia |
|
Tải xuống báo cáo
|
|
|
Tải phụ lục
|
|
Tóm tắt
w88.is hô hấp ở bò (BRD) là vấn đề quan trọng cần phòng ngừa đối với ngành chăn nuôi bò Úc. Hai thí nghiệm đã được tiến hành để điều tra các kỹ thuật chẩn đoán w88.is hô hấp ở bò và tác động kinh tế của nó đến lợi nhuận của gia súc nuôi vỗ béo.
Thí nghiệm 1 sử dụng chất chuyển hóa để nghiên cứu mối quan hệ giữa hệ chuyển hóa trong máu của bò đực vỗ béo thương mại, phương pháp chẩn đoán BRD thông thường và w88.is lý phổi sau khi chết. Những con bò bị w88.is về mặt thị giác (n=148) và thị giác khỏe mạnh (n=152) được những người chăn nuôi kéo ra khỏi chuồng và đưa đến chuồng w88.is viện để đánh giá lâm sàng và lấy mẫu máu để phân tích chất chuyển hóa. Các tổn thương phổi biểu hiện BRD được ghi điểm cho tất cả động vật thử nghiệm khi giết mổ. Phương pháp quang phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) đã được sử dụng để xác định các đặc điểm hóa học trong huyết tương nhằm dự đoán trạng thái BRD bằng cách sử dụng cây phân loại và hồi quy. Do thiếu tiêu chuẩn vàng phổ quát cho chẩn đoán BRD, sáu phương pháp chẩn đoán tham chiếu đã được sử dụng để xác định một con vật bị w88.is hay khỏe mạnh: chẩn đoán hình ảnh người nuôi bút (PD), chẩn đoán nhiệt độ trực tràng (TD; nhiệt độ trực tràng ≥ 40 oC), chẩn đoán nghe phổi (LAD; điểm nghe phổi ≥ 2), chẩn đoán w88.is viện (HD; ốm theo TD hoặc LAD, hoặc cả hai), chẩn đoán heo vỗ béo (FD; w88.is theo đến cả PD và HD), và chẩn đoán tổn thương phổi khi giết mổ (LLD; phổi đông đặc ≥ 10% và điểm viêm màng phổi là 2, hoặc điểm viêm màng phổi là 3). Nhiều chất chuyển hóa được xác định và các đặc điểm NMR chưa biết (đỉnh) cho thấy mối tương quan cao với trạng thái BRD trong khoảng từ +0,68 đến -0,71 (P <0,001). Mối tương quan mạnh nhất được tìm thấy với PD và FD chỉ ra rằng hệ thống chuyển hóa trong máu phản ánh các dấu hiệu w88.is tật có thể nhìn thấy được được ghi lại bởi những người lái bút. Tyrosine, citrate, glutamine, valine và alanine ở động vật mắc w88.is BRD thấp hơn so với đối chứng.
Hydroxybutyrate, chuỗi glucose, isoleucine, phenylalanine và creatine cao hơn trong các trường hợp BRD so với động vật đối chứng (P < 0,001). Tuy nhiên, sự khác biệt lớn nhất giữa động vật trường hợp và động vật đối chứng được tìm thấy ở các chất chuyển hóa không thể xác định được. NMR máu cho thấy độ chính xác cao (Acc) khi phát hiện BRD được xác định bởi PD (Acc=0,85) và FD (Acc=0,81) nhưng kém chính xác hơn khi phát hiện động vật được xác định là bị w88.is theo TD (Acc=0,65), HD (Acc=0,67), LAD (Acc=0,61) và LLD (Acc=0,71). Tất cả các phương pháp chẩn đoán đều yêu cầu một đặc điểm hóa học (đỉnh) hoặc chất chuyển hóa nhưng HD và LLD sử dụng lần lượt 3 và 5 đỉnh. Độ chính xác thấp hơn của TD, LAD, HD và LLD có thể là do cấu hình chuyển hóa phản ánh các dấu hiệu lâm sàng tại thời điểm lấy mẫu. Tuy nhiên, các dấu hiệu lâm sàng như nhiệt độ trực tràng hoặc tổn thương phổi khi giết mổ có thể đạt đỉnh điểm hoặc phát triển trước hoặc sau khi lấy mẫu máu. Kết quả chỉ ra rằng từ 1 đến 5 chất chuyển hóa trong máu của bò vỗ béo là những chỉ số hữu ích để phát hiện hoặc xác nhận BRD trong các trại vỗ béo, tuy nhiên cấu trúc hóa học của một số chất này cần phải được xác định. Chất chuyển hóa máu cho thấy tiềm năng lớn trong việc hỗ trợ xác định và xác nhận các trường hợp BRD trong điều kiện chăn nuôi thương mại. Công việc trong tương lai trong lĩnh vực này nên kết hợp lấy mẫu máu thường xuyên và các biện pháp lâm sàng bắt đầu trước khi tiếp xúc với BRD và từ suốt quá trình lây nhiễm đến giết mổ (ví dụ: giết mổ động vật hàng loạt).
Thí nghiệm 2 đã xác định tác động kinh tế của BRD thông qua phân tích hồ sơ trại chăn nuôi và w88.is lý phổi sau khi chết. Dự án được thực hiện tại một cơ sở chăn nuôi thương mại ở Nam NSW, Úc và bao gồm hồ sơ của những con bò đực từ hai thử nghiệm tại cơ sở chăn nuôi riêng biệt (Thử nghiệm 1: bắt đầu vào tháng 2, n=898; Thử nghiệm 2: bắt đầu vào tháng 6, n=1.314). Động vật được theo dõi từ khi bắt đầu đến giết mổ và được thu thập hồ sơ điều trị thú y trong giai đoạn cho ăn và các tổn thương phổi cho thấy BRD được thu thập khi giết mổ. Tỷ lệ mắc BRD là 16,6% vào cuối mùa hè (Thử nghiệm 1) và 9,6% (Thử nghiệm 2) vào mùa thu đông. Tỷ lệ tử vong của BRD chiếm khoảng 80% tổng số tỷ lệ tử vong và từ 2% (Thử nghiệm 1) đến 0,3% (Thử nghiệm 2) đối với tất cả các động vật được gây giống. Những con vật được điều trị BRD ba lần trở lên cho thấy thân thịt nhẹ hơn 40 kg trong cả hai thử nghiệm và mang lại ít hơn 384,97 USD trong Thử nghiệm 1 và 284 USD trong Thử nghiệm 2 so với những con vật khỏe mạnh trên cơ sở chết. Các tổn thương phổi nghiêm trọng được quan sát thấy ở 16% (thử nghiệm 1) và 6% (thử nghiệm 2) số động vật bị giết thịt. Điểm viêm màng phổi là 3 (phổi dính vào thành ngực) được quan sát thấy ở 10,7% và 5,6% số động vật trong thử nghiệm 1 và 2, tương ứng. Trong thử nghiệm 1, những con vật bị tổn thương phổi nghiêm trọng hoặc mức độ viêm màng phổi là 3 mang lại thân thịt nhẹ hơn lần lượt là 14,31 kg và 18,79 kg so với những con vật có phổi bình thường khi giết mổ. Lợi nhuận ròng cũng giảm 91 USD/con đối với những con vật này. Trong thử nghiệm 1, những con vật có điểm viêm màng phổi là 3 mang lại lợi nhuận trung bình ít hơn 137 USD so với các điểm khác. Trong thử nghiệm 2, các tổn thương ở phổi và điểm viêm màng phổi không có tác động đáng kể đến các thử nghiệm thân thịt hoặc lợi nhuận ròng. Những kết quả này giúp hiểu rõ hơn về chi phí kinh tế của BRD đối với ngành chăn nuôi bò Úc và có thể hỗ trợ xác định các lĩnh vực cần giải quyết nhằm giảm tác động của nó đối với các trại chăn nuôi thương mại.
Thông tin thêm
| Quản lý dự án: | Joseph McMeniman |
| Nhà nghiên cứu sơ cấp: | Đại học Sydney |

