Tóm tắt
Tăng số lượng cừu cái kết hợp với cừu con một tuổi khi được 12 đến 15 tháng tuổi có thể là một phương pháp hiệu quả để nhanh chóng tăng số lượng cừu cái và tăng nguồn cung cấp thịt cừu non. Tuy nhiên, năng suất sinh sản của cừu cái thấp hơn nhiều và có nhiều biến đổi so với cừu cái trưởng thành. Việc thiếu thông tin về tác động lâu dài của việc tham gia chăn nuôi cừu cái, đối với cả cừu cái non và con cái của nó, cộng với hiệu quả chi phí của việc tham gia chăn nuôi cừu cái cũng góp phần vào việc áp dụng phương pháp này tương đối kém. Các dự án trước đây (B.LSM.0038 và B.PDS.0903) đã xác định tầm quan trọng của việc sử dụng các con đực đực, trọng lượng sống lúc tham gia, tốc độ tăng trưởng trong quá trình tham gia và di truyền đực giống để link vao w88i thiện tỷ lệ sinh sản của cừu cái. Dự án hiện tại đã mở rộng công việc trước đó và hoàn thành việc phân tích tổng hợp các bộ dữ liệu liên quan đến hiệu suất sinh sản của cừu cái từ Úc và New Zealand, bao gồm các tác động của: (i) thông tin về trọng lượng sống của cừu cái đối với trọng lượng sơ sinh, tỷ lệ sống và sự phát triển của con cháu chúng cho đến khi cai sữa; (ii) tác động chuyển tiếp của hiệu suất sinh sản của cừu cái lên hiệu suất sinh sản của lợn cái và (iii) sự tăng trưởng, sản lượng len và hiệu suất sinh sản của thế hệ con cháu sinh ra từ cừu cái so với thế hệ con cháu sinh ra từ cừu cái trưởng thành. Dự án cũng sử dụng kết quả đầu ra từ siêu phân tích này để cung cấp thông tin cho mô hình kinh tế sử dụng MIDAS nhằm phát triển các hướng dẫn quản lý nhằm link vao w88i thiện hiệu suất sinh sản của cừu cái một cách hiệu quả về mặt chi phí. Tuy nhiên, số lượng kịch bản được mô hình hóa còn hạn chế và việc xác định các hướng dẫn quản lý liên quan đến đặc điểm trọng lượng sống từ khi cai sữa đến khi tham gia, trong khi tham gia, trong khi mang thai và giữa cai sữa và phối giống lúc 2 tuổi để tối đa hóa lợi nhuận là không rõ ràng. Trong dự án này, rõ ràng là các phương trình dự đoán về nhu cầu năng lượng hoặc khả năng hấp thụ của cừu mẹ cần được cập nhật và do đó thành phần cừu mẹ trong phân tích này có thể không chính xác. Phân tích bổ sung, sử dụng các tiêu chuẩn cho ăn tinh tế dành cho cừu cái mẹ, qua các môi trường và thời gian sinh sản khác nhau, cộng với việc nuôi dưỡng cừu non 1-2 tháng sau đàn trưởng thành, vẫn cần thiết để xây dựng các hướng dẫn quản lý mạnh mẽ hơn nhằm tối ưu hóa lợi nhuận từ việc tham gia chăn nuôi cừu cái.