Tóm tắt
PIRD được thực hiện vì hai lý do chính: o Để giải quyết một số vấn đề đã trở nên rõ ràng từ các hoạt động đo điểm chuẩn chính thức của nhóm. Các vấn đề chính là; hạn chế đáng kể về kỹ năng của các thành viên sản xuất về cách tăng lượng đồng cỏ được trồng và sử dụng cũng như liệu tỷ lệ năng lượng được phân bổ cho sản phẩm có thể bán được (sản xuất thịt) có thể tăng lên trên mức trung bình của nhóm là 25% hay không.
o Cơ chế hỗ trợ Asa để nhóm có thể thay đổi cách thực hành sau khi họ hoàn thành hội thảo về quản lý đồng cỏ. PIRD được sử dụng để chứng minh việc thực hiện các nguyên tắc quản lý đồng cỏ trong môi trường thương mại, cho phép nông dân thảo luận về các chiến lược bắt nguồn từ các nguyên tắc này và quan sát kết quả của việc thực hiện các chiến lược này.
Nhóm họp định kỳ hàng tháng đến sáu tuần và trải qua quá trình thu thập và xử lý dữ liệu cần thiết để đưa ra những quyết định tốt nhất nhằm tăng cường sự phát triển và sử dụng đồng cỏ cũng như đáp ứng các yêu cầu dinh dưỡng của đàn giống.
Dữ liệu được thu thập bao gồm độ che phủ đồng cỏ ở mỗi bãi link vào w88 mới nhất nuôi, tàn dư trước và sau khi link vào w88 mới nhất thả cũng như tỷ lệ mọc lá. Từ dữ liệu thô này, tốc độ tăng trưởng của đồng cỏ và thời gian luân canh đã được thiết lập và các quyết định phân bổ thức ăn và cho ăn bổ sung được đưa ra. Mục đích là để tối đa hóa sự phát triển của đồng cỏ bằng cách link vào w88 mới nhất thả ở giai đoạn lá thích hợp và ăn càng nhiều thức ăn được trồng càng tốt bằng cách kết hợp nhu cầu của động vật với sự phát triển của đồng cỏ.
Việc sử dụng đồng cỏ đã tăng từ mức trung bình khoảng 5.500 kg DM/ha lên 7.800 kg DM/ha hoặc gần 42% và đi kèm với việc tăng sản lượng trọng lượng sống trên mỗi ha từ 345 kg/ha lên 600 kg/ha.
Một cuộc kiểm tra kỹ năng và khảo sát trước và sau dự án chỉ ra rằng trình độ kỹ năng của nông dân và sự tự tin của họ về việc đưa ra các quyết định quản lý đồng cỏ đã tăng lên đáng kể trong suốt quá trình thực hiện dự án PIRD. Trên thực tế, họ có trình độ kỹ năng tương tự trong lĩnh vực quản lý đồng cỏ với tư cách là những nhà sản xuất có lợi nhuận cao nhất trong bang.
Nhờ có thời gian luân canh thích hợp cho cả năm nên nhu cầu phân đạm đã giảm xuống. Hơn 40% thức ăn được thu hoạch với lượng nitơ đầu vào ít hơn.
Chi phí biến đổi đã tăng theo tỷ lệ (trong mô hình) khi sử dụng đồng cỏ nhưng đã tiết kiệm đáng kể (hoặc giảm bớt) chi phí chung và giảm chi phí sản xuất trên mỗi kg thịt bò.
Sự kết hợp giữa tăng sản lượng trọng lượng sống và giảm chi phí đã dẫn đến lợi nhuận tăng khoảng 250% và mức lợi nhuận (lợi nhuận trên vốn) tương đương với các nhà quản lý giỏi nhất trong ngành.